flag header

Tin tứcHồ sơ tư liệu

Bản chất của cuộc chiến tranh 1954 - 1975 tại Việt Nam

Ngày đăng: 27-04-2019 Lượt xem: 10357

Đi tìm cội nguồn của một chính thể

          Ngày 20-7-1954, Hiệp định Genève về chiến tranh Đông Dương được ký kết. Theo đó, Việt Nam sẽ tạm thời bị chia cắt bằng ranh giới là vĩ tuyến 17 để quân đội các bên tập kết. Quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và trao quyền quyết định vận mệnh dân tộc mình cho người Việt Nam. Một năm sau đó sẽ tiến hành hiệp thương và một năm sau nữa sẽ tiến hành tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.

          Tuy nhiên, thực tế đã không diễn ra như vậy. Diễn văn trong buổi họp mừng Quốc khánh 2-9-1954, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nêu: “Hiện nay, đình chiến đã ký kết, hòa bình đang trở lại ở Đông Dương, thì chúng (đế quốc Mỹ) ra sức phá hoại việc thi hành đình chiến, phá hoại việc lập lại hòa bình. Từ những việc như: tàu của hải quân Mỹ đến chở dân miền Bắc Việt Nam bị bọn Ngô Đình Diệm ép đi vào miền Nam; trù tính kế hoạch “viện trợ” cho bọn Ngô Đình Diệm; cho đến âm mưu thành lập “khối phòng thủ Đông Nam Á”, mục đích của bọn can thiệp Mỹ là phá hoại sự thực hiện hiệp định đình chiến ở Đông Dương…”[1].

Năm 1954, Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về miền Nam làm Thủ tướng của Quốc trưởng Bảo Đại. Một năm sau đó, Diệm làm cái gọi là “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại và lập nên Việt Nam Cộng hòa. Ngày 26-10-1955 trở thành “ngày Quốc khánh” của chế độ Diệm.

Trong bộ Miền Nam giữ vững Thành Đồng, GS. Trần Văn Giàu khẳng định: “Trên đường thiết lập nền độc tài cá nhân của nó, từ năm 1955 đến năm 1956, Ngô Đình Diệm chẳng những ra sức tiêu diệt các đảng phái và giáo phái đối lập, mà lại còn song song ra sức tạo cho chính quyền độc tài cá nhân đó một cơ sở pháp lý, một bề ngoài dân chủ”[2].

Thực tế cho thấy, đô la, vũ khí, cố vấn Mỹ tung vào miền Nam là yếu tố nền tảng cho việc xây dựng và củng cố chính quyền của Ngô Đình Diệm. đó chính là nguồn sống của chính quyền Diệm, không có những nguồn sống ấy, thì chính quyền này không thể đứng được. Báo cáo tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa II, ngày 12-4-1961, Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: “Chế độ Ngô Đình Diệm là con đẻ của đế quốc Mỹ, tội ác của gia đình họ Ngô là tội ác của đế quốc Mỹ. Nhân dân ta ở miền Nam chống Ngô Đình Diệm tức là chống đế quốc Mỹ…”[3].

Rõ ràng, cái được gọi là nền “đệ nhất cộng hòa”, một chính thể tự cho là tự do, dân chủ, độc lập…, thực chất là một thứ tầm gửi. Tính chất tầm gửi đó có thể được nhìn nhận qua hoạt động cưỡng ép di cư. “Mục đích chính trị căn bản của cuộc cưỡng ép di cư này là: Thứ nhất, làm cho dư luận ở xứ này và dư luận ở nước ngoài tưởng rằng đông đảo nhân dân miền Bắc trốn tránh chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đi theo chế độ miền Nam tốt hơn, hấp dẫn hơn. Thứ hai, và điều này mới là chủ yếu, tạo cho chính quyền miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm, một chỗ dựa cần thiết, một nguồn tuyển mộ quân lính, tay sai, bè đảng, để dùng vào việc thực hiện kế hoạch xây dựng nền độc tài của Diệm, tức là chế độ thuộc địa kiểu mới ở miền Nam”[4].

Cuộc cưỡng ép di cư này còn có một số mục đích khác nữa. Đó là về kinh tế - xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ - Diệm hi vọng rút được một số lượng trí thức, công nhân kỹ thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người li tán, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư sẽ là nguồn cung cấp nhân công cho các đồn điền cao su, cà phê, cây ăn quả và một số cây công nghiệp mới du nhập. Đồng thời, với số người di cư, Mỹ - Diệm nhằm “thăng bằng sự chênh lệch giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu”. Điều này có nghĩa là “tăng thêm hi vọng của thắng lợi tổng tuyển cử”. Đồng bào di cư còn là nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền.

Những thủ đoạn tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai

          Trong những hoạt động nhằm củng cố quyền lực của mình, Ngô Đình Diệm, được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quan thầy Mỹ, đã có nhiều thủ đoạn tàn bạo. Đó là loại trừ tham mưu trưởng thân Pháp Nguyễn Văn Hinh (và thay bằng Lê Văn Tỵ); tiêu diệt Đại Việt ở Quảng Trị, Phú Yên; tiêu diệt Quốc dân đảng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kontum…

          Chủ trương tập trung quyền lực của Diệm đã làm các thế lực quân sự cát cứ hoảng sợ. Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên bắt đầu liên kết để chống lại Diệm, thường được gọi là “Tam liên”. Diệm đồng thời chia rẽ trong hàng ngũ Tam liên và trong từng thế lực quân sự, tổ chức các chiến dịch quân sự và dụ dỗ, mua chuộc. Kết quả là Bình Xuyên bị đánh bại hoàn toàn. Giáo phái Hòa Hảo cũng nhanh chóng bị loại trừ, khi một số thủ lĩnh lớp bị giết (Ba Cụt – Trần Quang Vinh), lớp bị mua chuộc (Hai Ngoán – Lâm Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ), lớp bị đánh bại rồi chịu đầu hàng (Năm Lửa – Trần Văn Soái)… Còn với Cao Đài, sau khi hai chỉ huy quân sự là Trịnh Minh Thế và Nguyễn Thành Phương hợp tác với Diệm thì lực lượng còn lại dần yếu thế, cuối cùng Hộ pháp Phạm Công Tắc phải bỏ chạy ra nước ngoài để tránh bị Diệm làm hại. Như vậy, chỉ trong vòng hơn 1 năm, các thế lực quân sự cát cứ gần như bị Diệm tiêu diệt hoàn toàn.

Trong lúc vừa trấn áp các giáo phái và thế lực đối lập, trong thời gian 300 ngày, chế độ Diệm đã thi hành ngay chính sách trả thù những người kháng chiến. Thủ đoạn của Diệm vô cùng phong phú và hậu quả thì vô cùng nặng nề. Các thủ đoạn đó là:

Thứ nhất, phân loại công dân và phân biệt đối xử. Chúng phân thành 3 loại: loại A (công dân bất hợp pháp, là những người yêu nước, yêu hòa bình, ủng hộ Hiệp định Genève, từng tham gia kháng chiến), loại B (công dân bán hợp pháp, gồm họ hàng, bạn bè của loại A và họ hàng, bạn bè những người đi tập kết ra Bắc), loại C (công dân hợp pháp, gồm những người còn lại). Đường lối của Diệm là dựa vào loại A đánh vào loại C, làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục.

Thứ hai, đàn áp các cuộc biểu tình chống áp bức và đòi thi hành đúng các điều khoản của Hiệp định Genève. Chẳng hạn, vụ Mỏ Cày (Bến Tre, tháng 9-1954), vụ Cây Cốc (Quảng Nam, tháng 9-1954), vụ Trà Ôn (Vĩnh Long, tháng 10-1954)…

Thứ ba, tổ chức khủng bố những người từng tham gia kháng chiến. Một số vụ tàn sát điển hình, như vụ triệt hạ Hướng Điền (Quảng Trị, tháng 7-1955, giết hại 3 lần với tổng cộng 91 người, trong đó có 15 phụ nữ và trẻ em gái bị hãm hiếp), vụ Đại Lộc (Quảng Nam, cuối năm 1957, bắt và giết hại 5.000 người)… Diệm cũng cho xây dựng hệ thống nhà tù và trại tập trung dày đặc. Nhà tù cỡ lớn giam từ ngàn người trở lên thì lúc này miền Nam có khoảng 100 cái, như Chí Hòa (chứa 4.000 người), Phú Lợi (6.000 người), Biên Hòa (3.000 người), Thủ Đức chứa (2.000 người)…

Về quãng thời gian khó khăn này, Đại tướng Văn Tiến Dũng nhận xét: “Trong 5 năm đấu tranh chính trị gay go và quyết liệt, đồng bào miền Nam đã chịu đựng nhiều đau thương và tổn thất, hàng ngàn xóm làng bị địch đốt phá, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên bị giam cầm, tra tấn và bắn giết”[5]. Tài liệu của Đại tướng dẫn lại cho biết, tính đến cuối năm 1957, lực lượng của Đảng ở các tỉnh đồng bằng khu 5 bị tổn thất nặng nề: 70% đảng ủy viên xã, 60% huyện ủy viên, 40% tỉnh ủy viên bị bắt và bị giết. Tỉnh có phong trào khá nhất, chỉ còn 10 chi bộ, mỗi chi bộ 3 đảng viên, tỉnh yếu còn 2, 3 chi bộ, 12 huyện đồng bằng mất hết cơ sở đảng.

Tại Nam bộ, tính chung từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, chúng đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên. Từ năm 1955 đến 1958, chúng giết hại khoảng 68.000 cán bộ, đảng viên, bắt giam 446.000 người. Chưa hết, tháng 12-1958, chúng đầu độc hàng nghìn tù chính trị tại trại giam Phú Lợi. Tháng 4-1959, Diệm tuyên bố “đặt miền Nam trong tình trạng khẩn cấp”[6].

          Bắt đầu một cuộc chiến chính nghĩa

          Sau khi hết 300 ngày chuyển quân, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm phớt lờ và tiếp tục phủ nhận Hiệp định Genève. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị mở hội nghị hiệp thương thì Diệm từ chối. Các luận điệu xuyên tạc (như Hiệp định Genève chỉ nói hiệp thương chứ không nói hội nghị hiệp thương, chính quyền Việt Nam Cộng hòa không ký Hiệp định Genève nên không cần phải thực hiện, miền Bắc không có dân chủ nên không thể tổng tuyển cử tự do…) đều bị đánh tan.

Hồi ức Đại tướng Văn Tiến Dũng nêu rõ: “Đảng ta đã chỉ rõ rằng: đứng trước chính sách cực kỳ phản động và tàn bạo của Mỹ - Diệm, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là đứng lên làm cách mạng để cứu nước, cứu mình. Do đó, mục đích cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm và đánh đổ bằng con đường cách mạng”[7].

Nghị quyết 15 được Ban Chấp hành Trung ương thông qua tháng 1-1959 đã chỉ rõ: Phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 17-1-1960, phong trào đồng khởi nổ ra ở Bến Tre sau đó lan rộng ra khắp miền Nam.

          Cuộc chiến vũ trang chống Mỹ và tay sai bắt đầu từ đó. Rõ ràng, chế độ Ngô Đình Diệm là sự khởi đầu của chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam nên cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước bắt đầu từ cuộc đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm.

          Từ năm 1961, Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, bằng cách xây dựng quân đội Sài Gòn mạnh với vũ khí, trang bị và cố vấn Mỹ, tiến hành “bình định” và lập “ấp chiến lược”, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang miền Nam. Nhưng âm mưu bình định và dồn dân trong các chiến lược không đạt kết quả, buộc Mỹ phải tăng dần lực lượng, từ 30.000 cố vấn năm 1964 lên 184.314 cố vấn và binh lính vào năm 1965.

          Cuối năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân chiến đấu từ Mỹ sang, “tìm và diệt” quân chủ lực miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Lực lượng Mỹ có mặt ở miền Nam đến cuối năm 1968 lên tới 545.000 tên; các nước như Thái Lan, Philippines, Úc, New Zealand và Hàn Quốc huy động thêm 70.000 quân nữa. Số lính Việt Nam Cộng hòa lúc này là 600.000 quân. Đây là những minh chứng thuyết phục cho hành vi xâm lược của Mỹ tại Việt Nam.

          Thực tế Mỹ không chỉ xâm lược miền Nam, chiếm đóng thông qua chính quyền tay sai, mà còn nhiều lần xâm phạm miền Bắc bằng đường không (dùng máy bay oanh tạc), đường biển (thả ngư lôi dọc theo bờ biển miền Bắc), đường bộ (dùng biệt kích xâm nhập trực tiếp). Hoạt động chiến tranh của Mỹ tuy không xây dựng chính quyền do người Mỹ đứng đầu như Pháp nhưng hòng biến miền Nam (nếu có thể thì cả Việt Nam) thành vùng phụ thuộc Mỹ, làm tiền đồn chống lại sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở châu Á – Thái Bình Dương, làm thị trường tiêu thụ sản phẩm của Mỹ và cung cấp nguyên vật liệu cho Mỹ…

Nếu chỉ là cuộc chiến nội bộ của người Việt Nam (civil war) thì khắp thế giới nói chung và nước Mỹ nói riêng đã không có hành động phản chiến quyết liệt. Trong suốt cuộc chiến, có hơn 200 tổ chức, ủy ban, phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam, hơn 50 nước có phong trào quyên góp ủng hộ Việt Nam, hơn 160 triệu người ở nhiều nước ghi tên tình nguyện sang Việt Nam đánh Mỹ, 83 cơ quan đại diện Mỹ ở các nước bị nhân dân đập phá… Tại Mỹ, có nhiều công dân Mỹ tự thiêu để phản đối cuộc chiến, trong đó có nhân vật nổi tiếng là Norman Morison; hơn 200 tổ chức chống chiến tranh xâm lược trên khắp các bang; 16/27 triệu thanh niên Mỹ tới tuổi quân dịch đã chống lệnh quân dịch; 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài vì không chịu nhập ngũ và đấu tranh phản chiến…[8] Cả cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton (1993 – 2001) khi còn là sinh viên cũng từng đấu tranh phản chiến.

Do đó, cuộc chiến tranh tại Việt Nam là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và chống xâm lược của nhân dân Việt Nam. Với nhân dân ta, đó là cuộc chiến chống xâm lược vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX!

TRÚC GIANG

 

[1] Phạm Văn Đồng, Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.9.

[2] Tổng tập Trần Văn Giàu, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.771.

[3] Phạm Văn Đồng, sđd, tr.36-37.

[4] Trần Văn Giàu, sđd, 722-723.

[5] Đại tướng Văn Tiến Dũng, Cuộc kháng chiến chống Mỹ - Bước ngoặt lớn, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.12.

[6] Báo Nhân dân, ngày 10-3-2005. Tại địa chỉ http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/14084302-.html.

[7] Đại tướng Văn Tiến Dũng, sđd, tr.11.

[8] Báo Nhân dân, ngày 7-4-2005.