Ngày đăng: 03-02-2021 Lượt xem: 2190
“Với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng Đảng ta thật là vĩ đại, Nhân dân ta thật là anh hùng” (lời Hồ Chủ tịch). Mùa xuân năm Canh Ngọ 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Có phải đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là lời mách bảo thiêng liêng của hồn thiêng ông cha. Chỉ thấy rằng, 91 năm ra đời và gắn bó cùng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân Việt Nam giành lại độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước trong hòa bình với những thành tựu không thể phủ nhận. Mỗi mùa xuân về, nghĩ về Đảng, chắc hẳn mỗi người Việt Nam chân chính lại nhớ đến vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc – Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người đã sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo đảng ta, đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, gian khổ, khó khăn, đưa đất nước bước vào một thời đại mới, - thời đại Hồ Chí Minh.
Chương trình giao lưu nghệ thuật "Mãi mãi niềm tin theo Đảng"
1. Trong lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam, “Đất nước tuy bao lần hưng vong/ Giang sơn tuy bao lần đổi chủ” (Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam). Thế nhưng, có lẽ chưa bao giờ đất nước Việt Nam lại rơi vào thời kỳ mà lịch sử sau này gọi là “đen tối như không có đường ra”. Kể từ khi nổ súng đầu tiên xâm lược Việt Nam năm 1858 đến khi thiết lập hoàn toàn nền đô hộ của mình trên lãnh thổ Đông Dương, thực dân Pháp đã gây ra bao cảnh tang tóc, điêu tàn trên đất nước Việt Nam. Thực dân Pháp nói rằng họ đi khai hóa văn minh, văn minh đâu không thấy, chỉ thấy hơn 90 phần trăm người dân Việt Nam trước năm 1945 mù chữ. Trước năm 1945, có năm, toàn cõi Đông Dương có không tới 800 sinh viên đại học. Trước thảm cảnh một cơn gió lạ từ phương Tây thổi tới đã làm bật tung gốc rễ nền đạo đức, luân lý và văn hóa Việt Nam được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử.
Trong bối cảnh ấy, rất nhiều các thế hệ người Việt Nam đã quyết thà chết không chịu làm nô lệ. Đã có biết bao cuộc khởi nghĩa nổ ra, biết bao những người con ưu tú của dân tộc đã trăn trở ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Trên con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, các phong trào yêu nước có thể khác nhau về đường hướng, quan điểm nhưng đều có điểm chung đặc biệt đó là lòng yêu nước cháy bỏng, thiết tha, là mưu cầu độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho Nhân dân. Các cuộc nổi dậy của các sỹ phu từ Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật đến Trương Định, Thủ Khoa Huân…cuối cùng đều bị quân thù dìm trong bể máu. Các đấng minh quân trên đỉnh ngai vàng đã tự nguyện từ bỏ ngai vàng “như chiếc dép rách” để cùng chịu chung số phận đau khổ của dân tộc mình, cùng mưu cầu độc lập cho đất nước. Đó là những Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân mà tên tuổi các ngài sẽ lưu danh cùng sử sách trong lòng kính trọng và khâm phục của muôn đời thế hệ con cháu mau sau: “Bao triều vua phế đi rồi/ Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ” (Tưởng niệm – Nguyễn Duy). Các cụ Phan Bội Châu theo Đông du, Phan Chu Trinh theo Tây du, Hoàng Hoa Thám theo con đường phong kiến hay Nguyễn Thái Học theo con đường cách mạng tư sản thì cuối cùng đều thất bại. Cái chết, sự hy sinh anh hùng, can trường và lẫm liệt của Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Cô Giang – Nguyễn Thị Giang (phu nhân Nguyễn Thái Học) vào năm 1930 như một tia sáng cuối cùng vụt sáng lên để rồi tắt hẳn, chấm dứt hoàn toàn các con đường yêu nước và cứu nước của dân tộc. Trong đêm đen tăm tối ấy, một ngọn lửa nhỏ đã được nhen lên ở ngoài nước để rồi nó được những chiến sỹ cách mạng can trường chuyển về trong nước, đốt lên, thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng thiêu cháy loài thực dân, đế quốc, biến thành trái tim Đan Kô dẫn đường cho dân tộc chúng ta bước vào một thời kỳ mới.
2. “Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ/ Không quê hương sương gió tơi bời/ Đảng ta sinh ở trên đời/ Một dòng máu đỏ nên người hôm nay” (Tố Hữu – Ba mươi năm đòi ta có Đảng). Thiếu quê hương chẳng bao giờ không đau khổ, có đất nước, có quê hương mà vẫn thiếu quê hương. Một đảng sinh ra từ gian khó ấy đã nhanh chóng nhận lãnh trách nhiệm lịch sử trọng đại mà dân tộc và các thế hệ đi trước đã trao trọng trách. Vừa ra đời, với thế và lực còn nhỏ bé, nhưng đảng đã hòa mình vào các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền vận động và tổ chức nhân dân lao động dấy lên phong trào cách mạng rộng khắp cả nước từ Xô viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 đến cuộc vận động dân chủ 1936-1939 và cao trào cách mạng 1941-1945: “Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt/ Đảng ta đây xương sắt da đồng/ Đảng ta muôn vạn công nông/ Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin” (Tố Hữu - Ba mươi năm đòi ta có Đảng). Lênin từng khẳng định rằng, một đảng tiền phong dầu mạnh đến bao nhiêu cũng chỉ có khả năng khuấy động trong năm ba vạn người, sức mạnh vĩ đại nhất chính là sức mạnh của Nhân dân. Mới 15 tuổi, với hơn 5 nghìn đảng viên mà một số đông vẫn còn bị giam giữ trong nhà tù của thực dân, đế quốc, những người Cộng sản đã lãnh đạo Nhân dân vùng lên với sức mạnh “chuyển núi, dời sông” làm nên cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại, đổi đời cho dân tộc Việt Nam. Cuộc cách mạng mà “Người nô lệ đi ra đường. Cỏ cây, đất nước được giải phóng. Một tác phẩm xuất hiện. Không phải công trình vô vi của anh hùng cô độc. Một tác phẩm của nhân dân, làm bằng máu thịt của nhân dân, anh hùng là nhân dân (…). Chính Đảng của Nguyễn Ái Quốc từ trong lòng người, xuất hiện ra từ ở nhà trường, công xưởng, ở đồn điền, ở đồng ruộng, hòa lẫn với đất trời Việt Nam. Người xây dựng một xã hội hạnh phúc, tự do và độc lập cho Việt Nam. Ngang qua họ, từ lâu và từ lâu, Cách mạng Tháng Tám được nghiền ngẫm, tưởng tượng, mơ mộng, ao ước, hy vọng trong nhà tù, trong trại giam, trong rừng thẳm, trong hang núi. Chết khô, chết đói, chết lạnh, chết súng, chết gươm. Cuộc đời tràn ngập nơi họ nhiều quá nên họ khinh cái chết. Họ phải khinh vào cái chết và đời sống của họ là kỷ luật. Kẻ thù săn bắt, tra tấn, tù đày, giết mòn, giết tại trận. Giết họ thì được nhưng không thể giết được kỷ luật của Đảng họ. Kỷ luật của Đảng đã thắng tất cả. Họ ở trong trái tim của một anh hùng mãi mãi, vô địch trong thời gian và không gian. Ấy là nhân dân. Mỗi một làn sóng ụp vào kẻ thù là một bài học. Làn sóng trước tan vỡ thì tiếp theo làn sóng sau. Thủy triều dâng lên mãi. Xiềng xích trói buộc loài người nhất định phải bị bứt nhiều chỗ (Nguyễn Văn Nguyễn – Tháng Tám trời mạnh thu”.
Lịch sử đã đặt lên vai dân tộc chúng ta những thử thách vô cùng khốc liệt. 21 ngày hưởng nền độc lập, cả miền Nam lại bước vào cuộc chiến đấu mới và sau đó là toàn quốc kháng chiến. Những chàng trai, cô gái năm ấy đã ra đi để trở về bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chín năm làm một Điện Biên ấy, bằng đường lối đúng đắn của mình, Đảng đã quy tụ được rất nhiều các tầng lớp Nhân dân từ các thành viên của hoàng tộc đến các vị quan lại nổi tiếng của triều đình phong kiến; từ những trí thức nổi tiếng trong và ngoài nước; từ những lãnh tụ tôn giáo tên tuổi đến những tín đồ ngoan đạo của hầu hết các tôn giáo; từ những người nông dân chân lấm tay bùn chỉ quen việc cầm cày, cầm quốc đến những tướng cướp chỉ quen cầm súng, cầm dao…Tất cả họ, dưới đường lối đại đoàn kết dân tộc của Đảng đã hòa chung làm một, đã đoàn kết cùng nhau, đã đi trọn 30 năm đến ngày thống nhất non sông và kết đoàn dân tộc 30-4-1975. “Tác phẩm càng vĩ đại thì đau khổ, hy sinh càng nhiều. Sanh một con người phải chín tháng mang nặng, một cuộc đẻ đau và ba năm bú mớm. Làm một cuộc cách mạng phải mấy thế hệ mang nặng, mấy cuộc đẻ đau và mấy mươi năm nuôi dưỡng” (Nguyễn Văn Nguyễn – Tháng Tám trời mạnh thu”. Tác phẩm của ngày thống nhất đất nước 30-4-1975 được đúc lên từ xương máu của nhiều thế hệ cha anh. Thế nhưng, dân tộc ta là một, đất nước ta là thống nhất không thể chia lìa. 30-4-1975 vì vậy trở thành cột mốc vĩ đại đánh dấu ngày đoàn tụ, sự thống nhất không thể chia cắt của đất nước Việt Nam.
3. Một đảng ra đời trong đấu tranh gian khổ, một đảng mà suốt mấy mươi năm chỉ toàn tâm toàn ý cho đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước; vì vậy, trước công cuộc xây dựng đất nước sau hòa bình đã có lúc bỡ ngỡ, vấp váp là điều không khó hiểu. Sau thống nhất đất nước, đâu đó đã xuất hiện tình trạng duy ý chí, áp đặt, đã xuất hiện những biểu hiện của bệnh công thần; đã xuất hiện một bộ phận cán bộ, trong đó có những người một thời từng sát cánh bên nhau, sẵn sàng chết thay cho nhau thì giờ đây lại quay lại hãm hại lẫn nhau…Rất may, bằng bản lĩnh và khả năng của mình, Đảng đã kịp thời phát hiện ra những bất cập, những căn bệnh ấy của xã hội. Đại hội VI của Đảng mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó đặc biệt là đổi mới về kinh tế. Liên Xô sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào khủng hoảng trầm trọng và bước vào thời kỳ thoái trào lớn nhất trong lịch sử của mình. Trước bối cảnh và tình hình ấy, Đảng cộng sản Việt Nam đã một lần nữa thể hiện bản lĩnh của mình, Đảng vẫn kiên trì, vững vàng trong phong ba bão táp.
Từ một đất nước thiếu lương thực triền miên trước đổi mới thì suốt nhiều năm qua, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất, nhì thế giới. Từ một đất nước với hơn 90% người dân mù chữ trước cách mạng tháng Tám thì nay gần 100% người dân biết chữ. còn có quan hệ rộng rãi với rất nhiều nước trên thế giới. Liên hợp quốc (LHQ) có 193 nước thành viên thì Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước. Việt Nam đã 2 lần được bầu vào vị trí Ủy viên Không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc với số phiếu rất cao và có lần gần như tuyệt đối. Việt Nam có 17 quốc gia là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, trong đó có 03 Đối tác Chiến lược Toàn diện; 17 Đối tác Chiến lược (bao gồm cả 03 Đối tác Chiến lược Toàn diện và 13 Đối tác Toàn diện. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 228 đảng tại 112 nước trên thế giới, trong đó có 59 đảng cầm quyền và 39 đảng tham chính (số liệu đầu năm 2020). Đại hội lần thứ XII của Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận được 248 bức điện chúc mừng của các chính đảng, các nhà lãnh đạo trên thế giới. Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tới ngày 28-01-2021, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận được 350 điện mừng từ các đảng, tổ chức khu vực và quốc tế, tổ chức hữu nghị, các đoàn ngoại giao v.v…
Sau 35 năm đổi mới đất nước, kinh tế Việt Nam đã tăng 12 lần, GDP đầu người tăng 8.3 lần, dự trữ hối đoái so với năm 1997 tăng 47,6 lần lên gần 100 tỷ USD. Tỷ lệ người nghèo từ trên 80% dân số thì nay chỉ còn dưới 3% và Việt Nam được nhiều tổ chức uy tín của quốc tế đánh giá là hình mẫu trong xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 ở Đông Nam Á, đứng thứ 36 trên thế giới và được đánh giá là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất trên thế giới v.v…Đặc biệt, trong khi cả thế giới chao đảo với dịch Covid-19 thì Việt Nam đã trở thành một quốc gia chống dịch thành công và hiệu quả nhất với đánh giá của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Thành công của Việt Nam trong phòng, chống đại dịch Covid-19 cho thấy một minh chứng điển hình về cách một quốc gia đang phát triển có thể chống lại đại dịch, đem đến một bài học ý nghĩa đối với các nước đang phát triển khác”. Ngày 26-01-2021, khi mà số người nhiễm Covid-19 trên toàn cầu vượt mốc 100 triệu người thì cũng chính vào ngày này, ngày làm việc chính thức đầu tiên của Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra tại Hà Nội.
Mùa xuân, nghĩ về Đảng, chắc hẳn những người Việt Nam chân chính đang được hưởng những thành quả của đất nước hôm nay không thể quên công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của bao lớp người Việt Nam yêu nước, của những đảng viên kiên trung của Đảng đã ngã xuống để Tổ quốc thống nhất, vẹn toàn và phát triển hôm nay. Và, hẳn nhiên, mỗi công dân chân chính của đất nước sẽ luôn nhắc nhở mình để xứng đáng với tiền nhân, để sự hy sinh của các thế hệ đi trước không phải là điều phí phạm.
Vũ Trung Kiên