flag header

Tin tứcChống DBHB

Phản bác các luận điệu xuyên tạc về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”

Ngày đăng: 27-09-2025 Lượt xem: 53

Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” do Ban Tôn giáo Chính phủ (Bộ Nội vụ) công bố cuối năm 2022 là tài liệu chính thức, cung cấp bức tranh toàn cảnh về đời sống tín ngưỡng và chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam. Cuốn sách đã được giới thiệu rộng rãi trong nước và quốc tế nhằm giúp mọi người hiểu rõ hơn mục tiêu, nội dung và thành tựu chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Sách trắng không chỉ nêu các thông tin cơ bản, từ số lượng tín đồ, cơ sở thờ tự đến lễ hội tôn giáo, mà còn làm rõ quan điểm, cơ sở pháp lý của Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhờ đó, bạn đọc trong và ngoài nước có cơ sở đánh giá khách quan về thực tiễn chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, có một số thế lực thù địch, phần tử phản động lưu vong và tổ chức cực đoan đã cố tình xuyên tạc, bịa đặt về sách trắng và thực trạng tự do tôn giáo ở nước ta. Họ bóp méo rằng sách trắng chỉ là “bức bình phong” che đậy vi phạm, rằng Việt Nam thiếu minh bạch, áp đặt tư tưởng chính trị vào tôn giáo, thậm chí đàn áp các nhóm tôn giáo “độc lập”; tư tưởng “Tam Vô” (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) được họ tung lên như một chiêu bài xuyên tạc.

Mục đích thâm độc của các thế lực thù địch là hạ thấp uy tín, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân và gây nghi ngờ về chính sách tôn giáo của Nhà nước. Chúng thường sử dụng các luận điệu xuyên tạc như: sách trắng là “bức bình phong” che đậy vi phạm tôn giáoNhà nước Việt Nam dùng sách trắng để “che mắt” dư luận, giấu giếm các vụ việc “vi phạm tự do tôn giáo” từng bị báo chí quốc tế chỉ trích, dẫn đến việc Mỹ xếp Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt (SWL) hoặc xem xét đưa vào danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC) về tự do tôn giáo; Việt Nam “thiếu minh bạch”, áp đặt “chủ nghĩa tam vô”.  Chúng lập luận rằng sách trắng “chưa thật minh bạch” và gán ghép thông tin rằng Nhà nước ép buộc người công giáo, người Phật tử theo chủ nghĩa vô tổ quốc, vô tôn giáo… Ngoài ra, các thế lực phản động thường xuyên tung tin rằng Việt Nam đàn áp, ngăn cấm các nhóm tôn giáo không chịu hợp tác hoặc không nằm trong hệ thống chính thức. Chúng gọi đó là “bóc lột quyền tự do tôn giáo” hay “đàn áp tín đồ”. Đểu cáng hơn, chúng vu cáo Nhà nước áp đặt định hướng chính trị lên tôn giáo, xuyên tạc rằng sách trắng bị “áp đặt tư tưởng, chính trị” để tuyên truyền cho đường lối của Đảng; cho rằng Nhà nước “không tôn trọng niềm tin tôn giáo, chỉ lợi dụng tôn giáo phục vụ mục đích chính trị”. Những luận điệu này thường được phổ biến trên mạng xã hội, trang blog cá nhân hoặc báo chí hải ngoại nhằm gây nhiễu loạn thông tin. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đây đều là những đánh giá sai lệch, thiếu căn cứ và phiến diện, nhằm kích động phẫn nộ, nghi ngờ trong một bộ phận xã hội, trong khi bỏ qua các thành tựu và bức tranh thực tế khách quan về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Về mặt pháp lý, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chính trị để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân. Hiến pháp 2013 khẳng định rất rõ ràng: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Đồng thời, Điều 24 của Hiến pháp cũng ghi rằng không ai bị xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật. Hiến pháp cũng cho phép đặt ra những giới hạn theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia hoặc trật tự xã hội, sức khỏe cộng đồng. Điều này hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do tôn giáo. Trên cơ sở Hiến pháp, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016 và các văn bản hướng dẫn (Như Nghị định 162/2017) để cụ thể hóa. Luật tín ngưỡng tôn giáo ghi rõ Nhà nước chỉ cấm các hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền, trật tự an toàn xã hội; còn lại, mọi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp đều được bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi. Đặc biệt, chính sách mới sau năm 2016 hướng đến tạo cơ chế pháp lý thông thoáng, minh bạch, hạn chế sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào sinh hoạt nội bộ của các tổ chức tôn giáo. Các thủ tục thành lập, đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo được đơn giản hóa, thời gian giải quyết được rút ngắn, tạo thuận lợi cho đồng bào các tôn giáo phát huy quyền tự do của mình trong khuôn khổ pháp luật.

Về mặt chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan niệm đoàn kết dân tộc, trong đó đại đoàn kết tôn giáo là bộ phận không tách rời. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng các chủ trương của Đảng đều khẳng định con đường “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” nhưng tuyệt đối không kỳ thị, phân biệt đối xử vì tín ngưỡng. Rất nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng đề cao việc phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo cho sự phát triển đất nước, khuyến khích chức sắc, tín đồ các tôn giáo góp sức tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng kinh tế – xã hội. Trong lịch sử kháng chiến và xây dựng đất nước, đồng bào lương – giáo luôn sát cánh, cùng đoàn kết với nhau và với toàn dân tộc. Chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” đã được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố từ năm 1946 và củng cố qua các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013. Nhờ vậy, nền tảng chính trị lẫn pháp lý đều vững chắc cho thấy Việt Nam cam kết bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Mọi chính sách, hành động của cơ quan chức năng đều hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền lợi, văn hóa tín ngưỡng của các cá nhân và tổ chức tôn giáo chân chính. Tuy nhiên, Nhà nước cũng nghiêm khắc ngăn chặn những hành vi lợi dụng tôn giáo để kích động chia rẽ, vi phạm pháp luật. Quy định này không hề xâm phạm quyền tự do mà nhằm bảo vệ lợi ích chung của dân tộc – phù hợp với tinh thần nhiều công ước quốc tế về quyền tự do tôn giáo.

Về mặt thực tiễn, trên cơ sở chính sách đúng đắn và khung pháp lý đảm bảo, thực tiễn sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam rất phong phú và ngày càng khởi sắc. Việt Nam hiện có hơn 26,5 triệu người có tín ngưỡng, tôn giáo trên tổng số gần 100 triệu dân. Trong số đó có trên 54.000 chức sắc, hơn 135.000 chức việc (giáo dân có vai trò thường xuyên) và gần 30.000 cơ sở thờ tự hợp pháp (chùa chiền, nhà thờ, miếu, đền chùa, cơ sở tôn giáo của các dân tộc thiểu số…). Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Chăm đều có tổ chức và sinh hoạt ổn định. Rất nhiều hội thánh, giáo xứ, họ đạo được chính quyền địa phương công nhận pháp nhân và bảo trợ tổ chức đại lễ, sinh hoạt tôn giáo. Hàng năm, gần 8.500 lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống được tổ chức trang nghiêm trên toàn quốc. Trong đó có rất nhiều lễ hội được Đảng, Nhà nước đặc biệt tạo điều kiện như Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK); Đại lễ Giỗ Tổ Hùng Vương – một nghi lễ tâm linh quan trọng của đồng bào Việt; các lễ Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Lễ Noel của người Công giáo, lễ Ramadan của cộng đồng Hồi giáo, lễ Tabernacle của người Cao Đài… Tất cả lễ hội lớn nhỏ đều diễn ra trong không khí an toàn, trang nghiêm, thể hiện tinh thần khoan dung, gắn kết cộng đồng. Nhiều tổ chức, cá nhân kể cả người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đều được phép tham gia sinh hoạt tôn giáo hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tín đồ tôn giáo ở Việt Nam không chỉ tuân thủ luật pháp mà còn tích cực tham gia xây dựng xã hội. Thực tế cho thấy đồng bào các tôn giáo trên cả nước đoàn kết, chan hòa với dân tộc, không có mâu thuẫn lớn nào về tín ngưỡng. Mỗi dịp đại lễ, nhà thờ và chùa chiền đông đảo giáo dân và phật tử yên tâm đến hành lễ, chứng tỏ chính sách tôn giáo trong sạch và công bằng. Điểm sáng nữa là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế về nỗ lực bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Những năm qua, Việt Nam hoàn thành tốt các khuyến nghị về tôn giáo trong khuôn khổ Đối thoại Nhân quyền, đặc biệt là UPR của LHQ. Năm 2014 và 2023, Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc với số phiếu rất cao, trong đó có sự đánh giá tích cực về tiến bộ bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Rất nhiều tổ chức quốc tế và bạn bè quốc tế đánh giá cao tình hình tôn giáo ở Việt Nam, ghi nhận rằng tín đồ được tự do sinh hoạt tôn giáo, nhiều nhà thờ, chùa chiền được xây dựng mới, và các lễ hội lớn được tổ chức chu đáo. Thậm chí có những tu sĩ nước ngoài sinh sống lâu năm ở Việt Nam khẳng định “tự do tôn giáo ở Việt Nam rất rõ ràng” và khuyến khích người nước ngoài hãy đến trải nghiệm cuộc sống tự do tại đây trước khi nghe tin sai lệch. Tóm lại, thực tế sinh hoạt tín ngưỡng – tôn giáo ở Việt Nam ngày nay là minh chứng thuyết phục nhất cho chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Từ những điểm đã nêu, có thể thấy chính sách tôn giáo của Việt Nam là minh bạch, đúng đắn và nhân văn. Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” không phải là bình phong hay trò gian trá, mà là công cụ thông tin quan trọng, thể hiện sự chân thành và nhất quán của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đảng và Nhà nước ta luôn đặt lợi ích của đồng bào có đạo ngang bằng mọi người dân khác, cam kết sẽ tiếp tục hoàn thiện pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo phát triển theo quy định. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng bào các tôn giáo là lực lượng quan trọng, hòa hợp với “dòng chảy dân tộc” chung. Chúng ta kiên quyết ngăn chặn mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ, bất mãn.

Theo Hương Sen Việt